''Chú Tư Cầu'' Của Lê Xuyên, Một Kho
Tàng
Ngôn Ngữ Của Đất Nam Kỳ
Lục Tỉnh
Hồ Trường
An
Troyes ngày, 19 tháng 08 năm 2007
Bạn hiền thân mến,
Trong một bức thư,
bạn có bảo tôi rằng bạn đang thèm nghe một
ngôn ngữ miệt vườn trên dải đất Nam
Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta mà phải là một
giọng rặc ṛng thổ ngữ từ miền B́nh
Định vào tận miền Nam trước năm 1975,
tức là vào thời kỳ khởi đầu cơn gió
bụi trên dải đất Đông Dương.
Hôm nay, tôi có dịp tâm sự
với bạn đây.
Khi viết xong quyển bút
khảo Quê Nam Một Cơi th́ tôi
cũng vừa nhận được một ấn
bản của quyển Chú Tư Cầu của Lê Xuyên do chị Dư
Thị Diễm Buồn từ Sacramento gửi tặng.
Quyển sách do nhà xuất bản Tiếng Vang tái bản, in
trên giấy quư màu vàng tái của hoa kim liên. Tôi sẽ không
nhận xét chi ly tỉ mỉ quyển này trong cuốn bút
khảo Quê Nam Một Cơi của chúng ta đâu. Tôi phải
để dành nó cho một cuốn bút khảo khác vào
một vào dịp khác, cũng vẫn viết về văn
chương của các cây bút gốc Nam Kỳ.
Tôi nhớ mang máng vào năm
1964 1965 ǵ đó, các làn sóng dư luận xôn xao về các
cuốn tiểu thuyết của các nhà văn Chu Tử,
Văn Quang, Thanh Nam, Tuấn Huy và những cuốn vơ
hiệp tiểu thuyết của Kim Dung chưa lắng
dịu hẳn. Th́ đùng một cái, những truyện dài
đăng từng kỳ của Lê Xuyên đăng trên các
nhật báo nổi tiếng ở Thủ Đô Sài G̣n
bắt đầu gây một tiếng vang dữ dội. Cho
nên trong cuộc viếng thăm nhà văn Vơ Phiến, tôi
được nghe họ Vơ bảo :
--
Viết đối thoại rặc tiếng Nam Kỳ có ai
bằng Lê Xuyên đâu.
Ông Lê Châu, chủ bút kiêm chủ
nhiệm tạp san Bách Khoa đă tấm tắc với
Thụy Vũ và tôi trong dip tôi theo chị tôi đến ṭa
soạn Bách Khoa lấy tiền nhuận bút :
--
Lê Xuyên viết đối thoại quyến rũ nhất.
Eo ơi, hễ đọc tác phẩm của ông ấy là như gặp lời
ăn tiếng nói mọi tầng lớp người Nam
Kỳ.
Quyển tiểu thuyết
của Lê Xuyên mà tôi đọc trước nhất là
Vợ Thầy Hương, sau đó mới tới
quyển Chú Tư Cầu, và sau hết là quyển Rặng
Trâm Bầu. Không khí trong 3 quyển đó căng thẳng,
khí hậu ngột ngạt. Nếu không nhờ lối
viết đối thoại tinh tế tuyệt vời th́
các tác phẩm của anh tuy đạt được
phẩm chất nghệ thuật cao nhưng chỉ quyến rũ độc
giả một cách chừng mực mà thôi.
Vào năm 1966, tôi tháp tùng
chị Thụy Vũ tôi và kư giả Lê Phương Chi
đi xi-nê tại rạp Rex
để xem phim ǵ mà tôi quên tựa mất rồi. Hôm
đó Lê Xuyên đi chung với cặp Nhă Ca & Trần Da
Từ. Từ khi quyển Mèo Đêm
của chị tôi tŕnh làng th́ cặp Từ Nhă và
chị tôi là chỗ đồng nghiệp quen thân. Lê Xuyên có
vóc dáng nho phong, khuôn mặt dịu dàng của một nhà mô
phạm, nụ cười hiền lành, nhưng ánh mắt
thật linh hoạt. Anh ăn mặc quá đơn giản
: quần màu vỏ trái ô-liu đậm, áo sơ mi cụt
tay trắng, đôi giày màu sô-cô-la, cườm tay trái đeo
đồng hồ. Con người mát lành ngọt dịu
như vậy mà văn chương lại cuồng phong
bạo vũ đầy dao súng, máu me, ác mộng và tinh khí.
Luôn tiện chị Nhă giới thiệu cho chị em tôi biét
nhà văn Lê Xuyên. Để tỏ ra thân mật, chị tôi
gọi anh bằng chú Tư Cầu. C̣n anh gọi chị tôi
bằng Mèo Đêm. Nếu gặp những bà nữ sĩ
ưa cố chấp như chị Đỗ Phương
Khanh (vợ Nhật Tiến) hay chị Thanh Phương th́
họ sẽ bắt lỗi anh dám liệt họ vào
hạng gái bán snack-bar cho lính Mỹ. Trong Mèo Đêm, Thuỵ
Vũ có hai truyện ngắn viết vê các cô gái buông hương
bán phấn hoặc gái gọi (call girls) trá h́nh các cô chiêu
đăi viên trong các snack-bar ở Sài G̣n. Và chị ban cho
họ cái hổn danh ''mèo đêm'', tức là những kẻ
săn t́nh vào lúc đêm về. Hôm đó, chị tôi vẫn
cười nói vui vẻ với Le Xuyên :
--
Chú Tư, hẹn hôm khác ḿnh gặp nhau, nói chuyện
nhiều hơn. Phim sắp
chiếu
rồi. May quá, hôm nay t́nh cờ Thụy Vũ mới
gặp một chú Tư Cầu bằng xương bằng
thịt.
Anh Lê Xuyên vui vẻ :
--
Hôm khác nghen cô Mèo Đêm.
Khi xem phim xong, tôi bảo Lê
Phương Chi :
--
Ông Lê Xuyên có vẻ hiền lành mà viết văn dữ
dằn. Đây là thứ nước trà
màu
vàng lợt mà là thứ trà quạu... Uống nó vào là chúng ta
sẽ mất ngủ v́ nó sẽ trở thành trà Thái
Đức làm ẩm khách thức đái suốt đêm.
Trong cuốn 3 của bộ
Văn Học Miền Nam, Vơ Phiến nhận xét tổng
quát về văn chương như sau :
Trong
thời kỳ 1954-1975, các nhà văn gốc Nam khi nói
đến chiến tranh trên đất nước
thường chỉ nói về cuộc chiến chống
Pháp mà tránh cuộc chiến chống cộng. Viết
truyện như B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, viết kư
như Vũ B́nh, đều thế. Đến lượt
Lê Xuyên, ông cũng thế. Mặt khác, các vị gốc
Bắc th́ chuyên về cuộc sống và con người
đô thị, c̣n các vị gốc Nam thường viết
về nông dân nông thôn. Lê Xuyên cũng thế.
Chuyện ấy dễ hiểu. Người Nam
chưa biết qua chế độ cộng sản th́ không
mặn nồng với việc chống cộng ;
người Bắc di cư, bao nhiêu văn nhân, nghệ
sĩ trí thức vào Nam đều sống ở đô thị
nên chỉ biết viết
về đô thị.
Như vậy cốt truyện Lê Xuyên, thường
xảy ra trong kháng chiến trước Genève, thường
diễn ra ở miền quê, nhân vật thường là
những nam nữ nông dân chất phác, ít học.
Lê Xuyên đặt các chuyện trong khung cảnh kháng
chiến không phải là để nói về kháng chiến.
Không có vậy đâu. Ông không hợp với các vấn
đề chính trị. Trong khung cảnh thời đánh nhau
với Pháp ông nói chuyện nam nữ yêu nhau thôi. Trong
chuyện yêu nhau ông không chú trọng tới ḷng thầm kín
giấu giếm trong các ngóc ngách của quả tim, như
các ông Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng khi viết Tố Tâm, Hồn bướm
mơ tiên. Lê Xuyên, ông ấy chủ về phía t́nh yêu xác
thịt theo cung cách hồn nhiên nhất (nhân vật nông dân
mà).
Về chuyện xác thịt, ông không chủ
trương những phô bày bạo tợn như D.H.
Lawrence, Henry Miller... Lê Xuyên không làm mích ḷng sở Kiểm duyệt.
Ông chú trọng nhất là ở những màn biểu diễn
bằng mồm. Đừng nên lẩn lộn ông Lê với
chuyện giữa Clinton và Monica Lewinsky ; cái yêu
đương bằng mồm của ông Lê tức là
những trang đối thoại dài dằng dặc xung
quanh mục tiêu chính của ái t́nh. Khi nam nữ đă dàn binh
bố trận xong th́ tác giả lánh mặt. Trong những
Chú Tư Cầu, Vợ thầy Hương, Rặng trâm
bầu v.v..., sự t́nh rộn ràng ríu rít, đầy
lời như thế.
Văy Lê Xuyên viết truyện có chiến tranh mà không
phải truyện chién tranh, có nông dân lầm than mà không
phải truyện xă hội, có ái t́nh mà không phải
truyện t́nh cảm. Chẳng qua là chuyện ''gay cấn''
để độc giả đọc chơi lúc buồn
t́nh, đọc cho nóng máy trong chốc lát rồi bỏ qua
thôi chứ ǵ.
(Chương
Lê Xuyên, các trang 843, 844)
*
* *
Chú Tư Cầu là tác phẩm đầu tay
của Lê Xuyên. Chàng viết về cuộc đời t́nh ái
của một chàng nông dân ngây thơ, nhân hậu, có số
đào hoa, không ve văn gái mà gái vẫn chạy theo quyến
rũ chàng rần rần. Trước hết là cô Phấn,
bạn gái cùng quê của chàng ở Rạch Chiếc
(gần quận lỵ Trà Ôn). Cô vốn táo bạo, dám
hiến thân cho chàng không cần lịnh mẹ, rồi
rủ chàng lên Sài G̣n để xây tổ uyên ương,
cốt tránh cuộc hôn nhân cưỡng ép do mẹ cô
sắp đặt khi bà chưa qua đời. Nhưng khi
tới Cần Thơ, cô bị tên Khách Trú trẻ tuổi
tên Lâm Sanh quyến rũ. Hắn bàn điều hơn
lẽ thiệt cho cô nghe v́ chốn thị thành không phải
làm chốn dung thân của một kẻ đôn hậu, quê mùa như Tư Cầu. Cho nên
v́ tương lai của Tư Cầu, Phấn dùng
kế gạt chàng xuống tàu
để trở về quê. Dè đâu , chàng
đi lộn tàu lên Nam Vang. C̣n Phấn không c̣n mặt mũi nào
để trở về quê nên đành theo làm vợ
người Khách Trú kia. Thật ra, trước phong vận
thanh tân của kẻ thị thành như tên ngoại
kiều kia, Phấn cũng xiêu ḷng làm vợ hắn.
Dọc đường, Tư
Cầu gặp một ông khách đồng hành đứng tuổi
xưng là chú Bảy. Chú ta cám cảnh thương t́nh Tư
Cầu nên khi tới Nam Vang chú giới thiệu chàng giúp
việc cho tiệm cơm người chị ruột chú là
cô Năm. Tại Nam Vang, Tư Cầu có nhiều dịp
tiếp xúc với phường trộm cắp,
phường dao búa, và được ḷng cô Ba Xá Lỵ
một gái nặc nô xinh đẹp, uy trấn một góc xă
hội du côn nho nhỏ trên đất Chùa Tháp này . Cô ta mê
chàng v́ tấm ḷng nhân hậu và hào hiệp của chàng, t́m
mọi cách để quyến rũ chàng. Rồi cả hai
tằng tịu say mê nhau. Nhưng sau một thời gian
sống hạnh phúc trên đất Chùa Tháp, v́ nhớ quê,
Tư Cầu xin trở về quê; chàng có rủ cô Ba theo,
nhưng cô ta biết rằng chốn ruộng đồng không phải
là chốn môi sinh thích thú của ḿnh nên từ chối.
Tư Cầu về quê,
được mẹ chàng cho chàng biết Phấn lấy
chồng Khách Trú giàu, có về đây vài lần và lần nào
cũng đến thăm hỏi chàng. Cô ta giúp đỡ
gia đ́nh chàng trong cơn ngặt nghèo nên bà rất cảm
kích cô ta lắm. Rồi cha mẹ chàng buộc chàng phải
cưới cô Thơm làm vợ. Cô này vốn là gái Việt
gốc Miên rất được chàng yêu thương quư
trọng. Cuộc sống lứa đôi của chàng tạm
b́nh yên hạnh phúc.
Nhưng cơn gió bụi
bắt đầu xảy ra trên đất nước. Sài
G̣n bị dội bom. Phấn về quê để gặp
Tư Cầu, rủ chàng đến chỗ khác xây dựng
lại cuộc sống lứa đôi đă từng dang
dở. Cô cũng cho chàng biết đứa con trai của
cô vốn là con ruột của chàng. Cô Thơm bắt
gặp quả tang cả hai lén lút tâm sự nhau nên ghen
lồng lộn. Rốt cuộc Phấn phải trở
về Sài G̣n, tiếp tục sống với người chồng
ngoại kiều của ḿnh như cũ.
Rồi đó, trong các Sóc
Thổ, người Miên nổi dậy phong trào ''cáp
duồng'' (với mục đích giết sạch
người Việt). Cô Thơm dù vốn là gốc Miên
nhưng đă từng được cha mẹ Việt Nam
nuôi từ thở ấu thơ, rồi khi lớn lên lấy
chồng Việt Nam nên cũng bị người Miên cho là
thứ Miên gian. Trong một chuyến về quê thăm cha
mẹ nuôi, cô bị bọn miên hăm hiếp và bị chúng
hạ sát. Tư Cầu điên tiết giết chúng
để báo thù cho vợ.
Rồi Tư Cầu nghe theo
lời Ba Kiên gia nhập vào nhóm du kích kháng chiến, bị
bắt giải lên Sài G̣n, rồi được chuyển
qua dinh cơ của một trung úy người Pháp có
phận sự canh giữ các tù nhân trước khi giải
họ đi Côn Đảo. Không ngờ viên sĩ quan này là
chồng hờ của cô Ba Xá Lỵ. T́nh cũ gặp nhau,
cô Ba Xá Lỵ hết ḷng giúp
đỡ Tư Cầu để được gần
gũi ân ái với chàng. Chàng chỉ làm tạp dịch
nhẹ nhàng thôi. Nhưng rồi một hôm nọ, Tư
Cầu theo nhóm tù nhân
đến tiệm bán cây mà
viên trung úy đă đặt tiền mua để chất
cây lên đoàn vận tải quân xa đem về nhà hắn.
T́nh cờ Tư Cầu gặp Phấn, vợ tên Khách trú
Lâm Sanh, bây giờ hắn ta trở thành chủ nhân tiệm
bán cây ấy. Phấn gạn hỏi nguồn cơn người
yêu cũ của ḿnh, rồi hiệp cùng cô Ba Xá Lỵ giúp
đỡ Tư Cầu vượt ṿng phong tỏa của
viên trung úy chồng hờ của cô Ba. Tại nhà riêng do
Phấn thuê, Tư Cầu bị lính tuần tiễu bố
ráp nên bị bắt đưa về bót cảnh sát Catinat
để cho bọn bao bố nh́n mặt. Những tên
chỉ điểm đội bao bố kia (để
khỏi bị ai biết mặt) v́ không biết chàng có dính dáng với bọn Việt Minh
công tác ở thành phố hay không nên không thể xác nhận
chàng là Việt Minh nội thành và cho nên chàng được
tha.
Tư Cầu lại về quê.
T́nh h́nh ở đây căng thẳng nên chàng nhập vào toán
du kích kháng chiến địa phương. Trong cuộc
tấn công quân xa của lính Tây, Tư Cầu cùng
đồng bọn hạ sát được tên chồng
sĩ quan hờ của cô Ba Xá Lỵ. Nhưng chàng không
cứu được cô. Tên chánh trị viên giết cô ta.
Tư Cầu toan báo thù cho người yêu của ḿnh
nhưng hắn đă kịp thời cao bay xa chạy
mất rồi.
Nhớ lồi dặn chú
Bảy trên chuyến tàu đi Nam Vang năm xưa, Tư
Cầu lên Châu Đốc t́m chú và làm vườn cho chú. Chàng
chiếm được trái tim cô Thắm, và
được chú Bảy gả con gái cưng của chú cho
chàng. Nhưng rồi chàng đi theo lực lượng kháng
chiến để rồi chết trong trận đánh Tây
theo chiến thuật du kích. Trong khi đó ở quê nhà, cô
Phấn mang thai. Rồi đứa con trai của chàng chào
đời. Nhưng dù sao chàng cũng đuợc an ủi
v́ trong lúc lâm chung, thằng em vợ của chàng đọc
cho chàng nghe bức thư báo tin mừng của vợ.
*
* *
Như bạn biết: theo
truyền thống các cây bút Nam
Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta, Lê Xuyên dù không có khuynh
hướng tải đạo, nhưng anh thường cho
các nhân vật chánh của anh ăn ở theo đạo
nghĩa, phô bày tấm ḷng nhân hậu, bao dung một cách
hồn nhiên, không cố gắng. Trên đất Nam Vang,
Tư Cầu chống cự với kẻ mạnh
độc dữ để binh vực kẻ yếu
hiền lành. Chàng bao dung kẻ thù toan hăm hại chàng
làm cho kẻ thù hồi tâm kính mến chàng. Tư
Cầu vốn dốt nát, chỉ biết đọc
quọt quẹt năm ba chữ quốc ngữ, nào có
biết nhân, nghĩa, lễ, trí tín hay tam cang ngũ
thường do ông Khổng Tử bày ra đâu. Anh không
đọc kinh Phật bao giờ, nhưng anh không làm ác,
không lấy oán trả oán. Vợ anh bị bọn Miên
cưỡng hiếp và hạ sát, nhưng khi thấy cô gái
Miên bị Ba Kiên, anh trai của chàng toan bề cưỡng
dâm chàng phản kháng ngay, không muốn anh ḿnh gây ác nghiệp.
Cho nên Ba Kiên phải buông tha cô thiế nữ Miên. Trong
thời kỳ Nhật
đảo chánh, có hai tên lính Tây bị ch́m tàu tắp vào
Rạch Chiếc, Ba Kiên toan
đi báo cho nhà chức trách, nhưng Tư Cầu hợp
cùng nhóm người nhân từ đ̣i phóng thích lính Tây. Khi
được Cô Ba Xá Lỵ giúp chàng vượt ngục,
chàng nằng nặc cô giúp luôn chú Tám, người bạn tù
đă cùng cùng đồng cam cộng khổ với chàng.
Tư Cầu theo toán du kích kháng
chiến chống Tây là cảm thấy ḿnh phải làm theo
thiên lương soi sáng ḿnh một cách hồn nhiên, không
nghĩ xa, không nghĩ gần, cũng không được
ai huấn luyện ḷng ái quốc thương dân. Do đó,
chàng gần ông Thích Ca Cồ Đàm cùng ông LăoTử và ông
Trang Tử hơn ông Khổng Tử. Chàng lạc loài
với các ông chuộng trí thức Tây Phương cùng dân
khoa bản. Chàng cũng không thể là thần tượng
huy hoàng cho các cô ôm lư tưởng môn đăng hộ
đối và có thói ưa chuộng phi cao đẳng
bất thành phu phụ. Chàng là người t́nh lư
tưởng của các cô gái táo tợn, liều lĩnh,
nhưng có thiên lương trong sáng, biết nắm bắt
được cái giá trị chân thật của con
người, không cần tính toán chi ly, không cần so sánh dài
ḍng. Hồ Biểu Chánh khi viết văn theo kiểu
văn dĩ tải đạo c̣n dựa theo khuôn nếp,
nguyên tắc, lời khuyên răn dạy bảo của các
bậc thánh hiền. Lê Xuyên không theo ông hiền triết nào,
không nương tựa rêu rao theo khuynh hướng
đạo nghĩa nào. Anh viết khơi khơi mà vẫn
làm cho độc giả xúc động, yêu mến lớp
dân quê hiền làngh, ḷng ngay dạy thẳng, không có chút ư
nghĩ quanh co đo đắn trước những công
việc phải làm.
Lê Xuyên không viết văn dài
ḍng : không cần tả cảnh, tả người, tả
vật, tả tâm tâm trạng, tức là không tả
những cái mà giới b́nh dân cho là ḷng ṿng không hợp
với khiếu thưởng ngoạn của lớp
độc giả với ḷng dạ rổng rang, suông
thẳng nhưng ống nứa ống tre. Anh thích kể
chuyện, ưa cho các nhân vật của ḿnh chuyện tṛ
ṿng vo Tam quốc, cằn nhằn dai dẳng, cà khịa
rỉ rả, căi lẫy tưng bừng, có khi chửi
bới huyên náo. Anh không cần viết văn đâu. Anh
cũng thích kể chuyện lắm đâu. Anh chỉ thích
cho các nhân vật của ḿnh có
nhiều dịp đối thoại tuồn tuột, ngon
ơ. Lời nói của các nhân vật biểu lộ cá tính
của các đương sự luôn cả chân dung của
họ cùng bối cảnh chung quanh họ hiện mập
mờ vài nét tạo h́nh khái quát, nhưng cũng đủ
chạm khắc vào ấn tượng độc giả
sành điệu. Trong Chú Tư Cầu, Lê Xuyên dùng ngôn ngữ Nam Kỳ
Lục Tinh vào thuở tiền chiến, không pha ngôn ngữ
của thời Đệ nhất Cộng Ḥa hay vào thời
Đệ nhị Cộng Ḥa. Thí dụ : rắc rối không biết đâu mà rờ
(tức là không thể đoán trúng được), làm cho xất bất xang bang (tức
làm cho khổ sở điêu đứng), đụng đâu xâu đó (tức là hễ
gặp dịp là nắm lấy ngay không cần biết
tốt xấu, lợi hại), mấy
con nập nợn (tức là mấy cô thiếu nữ dâm
đảng lẳng lơ), anh
làm cái điệu đó th́ mụ nội em cũng ĺa
(tức là làm cho em điêu đùng, gặp cảnh gia
đ́nh ly tán) ... Anh không pha thêm những tiếng lóng ( les
patois) mà người Bắc di cư và người Nam
bản xứ pha trộn nhau như : sức mấy, bỏ qua đi Tám, lấy le,
thằng cà chớn, oan ôi ông Địa, lạng quạng,
mút mùa lệ thủy, đi ăn chè ở nhà Bè (tức là lén lút đi ngoại
t́nh, cụm tư này lấy sự tích nhạc sĩ
Phạm Duy cùng nữ ca sĩ Khánh Ngọc đi Nhà Bè
để ngoại t́nh ; nhưng
khi bi lính kiểm tục và thừa phát lại bắt
đuợc, cả hai khai rằng họ đi Nhà Bè
để ăn chè) ...
*
* *
Ngôn ngữ miền Nam chánh
gốc, thuần túy hay ngôn ngữ phối hợp của
người Bắc di cư và của người Nam
bổn xứ đều quyến rũ như nhau :
sống động và gợi cảm gấp đôi ngôn
ngữ kiều diễm cao sang trong các tác phẩm của
nhóm Tự Lực Văn Đoàn v́ chúng dễ đi sâu vào
tâm hồn dân tộc ở mọi cấp bậc và mọi
thành phần trong xă hội. Hồ Biểu Chánh viết
văn mà không hề lộn ngôn ngữ Bắc Kỳ. B́nh
Nguyên Lộc, Sơn Nam cũng vậy. Nhưng hai anh B́nh
Nguyên Lộc và Sơn Nam chỉ thành công về phương
diện kỹ thuật viết văn, ở sự
diễn tả t́nh tiết, nhưng ngôn ngữ và cách
đối thoại trong văn chương họ không có
linh hồn sống động, không có sức hấp
dẫn bằng ngôn ngữ trong văn chương và cách
đối thoại của Lê Xuyên. Họ Lê chịu khó
lắng tai nghe ngôn ngữ trong dân gian, nhất là nơi sinh
hoạt của lớp b́nh dân, lớp người ở
cấp bậc thấp nhất trong giới hạ lưu
của xă hội. Cái thành công của anh nhất định
là phải có. Trong giới điện ảnh của
nước Pháp, người viết đối thoại
tài hoa lỗi lạc nhất là Michel Audiard. Ông này chị khó
đi t́m ngôn ngữ trong dân gian nên mới chiếm một
địa vị cao chót vót trong ngành viết đối
thoại như thế.
Ở Miền Nam Việt
Nam của chúng ta, trước năm 1975, những cây
viết gốc Nam Kỳ như Ngọc Linh, Sĩ Trung không
viết thuần túy văn chương Nam Kỳ. Những
đoạn đối thoại dài ngoằng của họ
càng làm độc giả bực ḿnh, cho nên tên tuổi
họ chỉ đứng bên lề văn học sử.
Duy người Bắc như Thanh Tâm Tuyền trong
truyện dài Cát Lầy, Viên Linh trong truyện dài Mă Lộ
đều viết đối thoại bằng ngôn ngữ
Nam Kỳ, đều thành công khả quan. Nhà văn Vơ Phiến gán cho các nhân
vật người Nam trong truyện dài Đàn Ông và trong truyện dài Một Ḿnh cái ngôn ngữ Nam Kỳ cực
kỳ quyến rũ. Giờ đây, ở hải
ngoại, dù là cha Quảng Ngăi (nhà chí sĩ Hồng Tiêu
Nguyễn Đức Huy), mẹ Quảng Nam (nữ sĩ
Tùng Long), nhưng được sinh trưởng ở Sài
G̣n nên nhà văn Nguyễn Đức Lập viết
giọng điệu Nam Kỳ cực kỳ duyên dáng bỏ
xa các cây bút gốc Nam Kỳ khác. Tuy nhiên, tất cả
những nhà văn này làm sao t́m lai cái ngôn ngữ Nam Kỳ
trước cuộc chiến tranh Đông Dương
giữa Pháp và Việt Minh như Lê Xuyên với các ngôn
ngữ mà giới phu phen ở đô thị, giới nông dân
ở thôn quê, giới thương hồ trên sông
nước phù sa thường dùng như : nằm chàng hảng chê hê, chữ nghĩa quọt
quẹt, nói tiếng Tây ba xí ba tú, làm chuyện ǵ cũng ba
trật bốn vuột, ai ai cũng hít hà chắt
lưỡi khen hay, ăn ở bầy hầy như
chồn hôi chó vật...
Thôi th́, nhưng kẻ sanh sau
đẻ muộn như chúng ta, đă trưởng thành vào
5 năm cuối của thập niên 50, chúng ta có thể
chắc mót, lượm lặt ngôn ngữ Nam Kỳ của
chúng ta vào thời biển lặng sông trong xa xưa
được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Có c̣n hơn không,
phải không bạn ?
Cổ Nguyệt
Đường, hè năm Đinh Hợi (2007),
Tiết thịnh hạ
Hồ Trường An